Làm sáng tỏ Himiko Himiko

Các nhà nghiên cứu đã khá vất vả để dung hòa được các nguồn lịch sử về Himko của Trung Quốc và Nhật Bản. Trong khi "Ngụy chí" miêu tả bà là một Nữ vương quan trọng trong thế kỷ 3 của Nhật Bản, các nhà sử học cổ Nhật Bản cố ý tránh nói đến tên của Hiimiko, thậm chí khi Nihon Shoki trích dẫn "Ngụy chí" về đoàn sứ thần từ nước Wa.

Tên gọi

Ba chữ Trung Quốc 卑彌呼 hoặc 卑弥呼 chép lại tên vị Nữ vương người Oa đọc là himiko hay hibiko trong tiếng Nhật hiện đại và bēimíhū hay bìmíhū trong tiếng Trung Quốc tiêu chuẩn hiện đại. Tuy vậy, việc phát âm đương thời rất khác với khi đọc chữ "Himiko" vào thế kỷ 3, cả người đọc không biết tiếng Wa và người Trung Quốc đã chép lại nó. Trong khi việc chuyển dịch chữ nước ngoài sang tiếng Trung Quốc rất phức tạp, chọn ba chữ này làm bối rối người đọc, với nghĩa là "thấp, hèn kém", (phồn thể) hay (giản thể) "khắp, tràn đầy", và "gọi to".

Trong ngôn ngữ phát âm cổ Trung Quốc, chữ beimihu hiện đại (卑彌呼) đơn giản hơn cách phát âm vào cuối thế kỷ 3 của Trung Quốc cổ đại hay đầu Trung đại. So sánh với việc dựng lại cái tên 卑彌呼 vào thời cổ đại hay trung đại của Trung Quốc (Bernhard Karlgren, Li Fanggui, and William H. Baxter), "đầu trung đại" (Edwin G. Pulleyblank), và, gần nhất với lịch sử, "Hậu Hán" (Axel Schuessler).

  • pjiḙmjiḙχuo (Karlgren)
  • pjiemjieχwo (Li)
  • pjiumjieXxu (Baxter)
  • pjimjiχɔ or pjiə̌mjiə̌χɔ (Pulleyblank)
  • piemiehɑ (Schuessler)

Để đơn giản hóa mà không dùng ký hiệu IPA, 2 chữ cái đầu tiên với p(j)- và m(j)- phụ âm đầu initial consonants share -i(e) final vowels, and the third has a either a voiceless fricative X- or a voiced fricative h- plus a back mid vowel -u(o). Thus, "Himiko" could be hypothetically reconstructed as *P(j)i(e)m(j)i(e)hu(o).

In terms of historical Japanese phonology, himiko would regularly correspond to Old Japanese *Fimeko. However, Roy Andrew Miller says *Fimeko is a lexicographic error deriving from the Wei Zhi transcriptions.

Most perplexing of the entire list is the name of the queen of the Yeh-ma-t'ai community, Pi-mi-hu, Middle Chinese pjiḙ-mjiḙ-χuo. This has traditionally been explained and understood in Japan as a transcription of a supposed Old Japanese form *Fimeko, said to be an early term meaning "high born woman; princess," and to derive from Old Japanese Fime [or Fi1me1] (also sometimes Fimë [Fi1me1]), a laudatory title for women going with Fiko [Fi1ko1] for men. Later Fime comes to mean "princess," but this meaning is anachronistic for the earlier texts. … The difficulty concerns the supposed Old Japanese word *Fimeko. Even though such a form has found its way into a few modern Japanese dictionaries (for example even Kindaiichi's otherwise generally reliable Jikai), it is in fact simply one of the ghost words of Japanese lexicography; when it does appear in modern lexical sources, it is a "made-up" form listed there solely on the basis of the Wei chih account of early Japan. There never was an Old Japanese *Fimeko; furthermore, the Middle Chinese spirant χ of the transcription suggests that the final element of the unknown original term did not correspond to Old Japanese -ko [-ko1], which is rendered elsewhere – in Fiko [Fi1ko1], for example – with Middle Chinese -k- as one would expect. The final element of this transcription, then, remains obscure, thought there is certainly a good chance that the first portion does correspond to a form related to Old Japanese Fime. Beyond that, it is at present impossible to go. (1967:22)

Hime < Old Japanese Fi1me1 ( "young noblewoman; princess"), explains Miller, etymologically derives from hi < Fi2 ( "sun") and nyo < me1 ( "woman").

Tsunoda (1951:5) notes "Pimiko is from an archaic Japanese title, himeko, meaning 'princess'," that is, hime with the female name suffix -ko ( "child", viz. the uncommon given name Himeko). Other Amaterasu-related etymological proposals for the Japanese name Himiko involve hi (日 "sun") and miko ( or 巫女 "shamanka, shamaness; shrine maiden; priestess"); or their combination hime-miko "princess-priestess".

Toa tàu Himiko AR401 ở Ga Kiyama Himiko water taxi ở Vịnh Tokyo

Besides the original Queen of Wa, the name Himiko is also used in Japanese popular culture. Himiko (卑弥呼) is a train on the Amagi Railway Amagi Line and a water bus of Tokyo Cruise Ship designed by Leiji Matsumoto. The House of Himiko (Mezon do Himiko メゾン・ド・ヒミコ) is a 2005 movie starring Kō Shibasaki. The Legend of Himiko ( Himiko-Den 火魅子伝) is an anime series, manga, and computer game. Two other anime-manga characters are Himiko (ひみこ) in Kyoshiro and the Eternal Sky, and Himiko Kudo (工藤卑弥呼) in Get Backers.

Nhân dạng và xác thực

Nhận dạng Himiko/Pimiko của dễ hiểu trong Lịch sử Trung Quốc, nhưng phức tạp trong Lịch sử Nhật Bản. "Ngụy chí" thế kỷ thứ 3 ghi lại các chi tiết về Nữ vương Himiko và sự giao thiệp của bà với Hoàng đế Tào DuệTào Phương. "Cổ sự ký" thế kỷ 8 của Nhật Bản và "Nhật Bản thư kỷ" không để ý đến Himiko, trừ khi bà chính là nguyên mẫu của Nữ Thiên hoàng Jingū, Yamatohime-no-mikoto, hay Yamato-totohi-momoso.

Không có ai trong số ba tư tế hoàng gia theo truyền thuyết của Nhật Bản tương ứng với sử ký và miêu tả của Trung Quốc về Himiko. Theo "Ngụy chí", Hiiko qua đời vào năm 248, nếu công nhận hệ thống ngày tháng mở hồ của Nhật, thì bà sẽ gần với Thiên hoàng thế kỷ 3 Jingū hơn là những người ở thế kỷ 1 TCN như Yamatohime-no-mikoto và Yamato-totohi-momoso-hime. Mặt khác, nếu đồng ý với những chỉnh sửa lại ngày tháng trước thế kỷ 4, thì Himiko gần với tên của một tư tế thời Yamato. Cả "Kojiki" và "Nihonshoki" đều không đề cập đến Himiko hay bất cứ một chủ đề nổi bật nào rằng bà không kết hôn, và được nhân dân chọn làm người lãnh đạo, có một người em trai giúp đỡ việc cai trị (trừ khi điều này là nói về con trai của Jingū), hay có rất nhiều nữ tì.

William Wayne Farris (1998:15-54) xem xét lại lịch sử tranh cãi học thuật về Himiko và lãnh địa Yamatai của bà. Nhà triết học thời Edo Arai HakusekiMotoori Norinaga bắt đầu cuộc thảo luận về việc liệu Yamatai nằm ở Kyushu hay Yamato và liệu sử liệu từ "Ngụy chí" hay "Kojiki" và "Nihon Shoki" đáng tin hơn. Nhà Nho Arai tàn thành lịch sử Trung Quốc là đáng tin hơn, và đánh đồng Himiko với Jingu và Yamatai với Yamato. Học giả kokugaku Motoori cho rằng lịch sử huyền thoại truyền thống Nhật Bản đáng tin hơn, và bác bỏ các trích dẫn trong "Ngụy chí", coi đó chỉ là sự thêm thắt vào. Ông đưa ra giả thuyết rằng một vị vua từ Kumaso gửi sứ thần giả dạng làm quan lại của Jingu đến triều đình nhà Ngụy, do đó tưởng lầm Thiên hoàng là Himiko.. Farris (1998:16) says, "Giả thuyết tiếm quyền của Motoori (gisen setsu) có sức nặng lớn với thế kỷ sau."

Sau cuộc Minh Trị Duy Tân năm 1868, các nhà sử học Nhật Bản tiếp thu được sự uyên bác của sử học châu Âu, đặc biệt là phương pháp dựa trên nguồn gốc của Leopold von Ranke. Naka Michiyo tin rằng Nihon Shoki không chính xác từ thế kỷ 4 trở về trước, và do đó (Farris 1998:17) "Jingū trở thành một nữ hoàng vào thế kỷ 4, triều đại của bà không thể trùng khớp với thời Himiko." Nhà Hán học Shiratori Kurakichi đề xuất rằng các nhà biên soạn Nihon Shoki bị xúi giục liên hệ Jingu với quyền năng tôn giáo của Himiko. Naitō Torajirō cho rằng Himko là đại tư tế đền Ise Yamatohime-no-mikoto và quân đại Wa đã giành được quyền kiểm soát phía Nam bán đảo Triều Tiên.

Học giả [Higo Kazuo] khẳng định rằng Himiko thực ra là Yamato-toto-momo-so-hime-no-mikoto, cô của vị Thiên hoàng thần thoại Sujin, vì ngôi mộ được cho là của bà tại Hashihaka, Nara có đường kính lên đến hơn 100 bộ, kích thước ngôi mộ của Hiniko. Thuyết này có nhiều người theo vào thời kỳ trước chiến tranh. [Shida Fudomaru] lại nhìn thấy trong hình tượng Himiko sự thể hiện về quyền cai trị chính trị của phụ nữ ở Nhật Bản thời cổ. (Farris 1998:20)

Một số nhà sử học Nhật Bản sau này tái sắp xếp Himiko theo quan điểm lịch sử Marxist. Masaaki Ueda cho rằng "Quốc gia của Himiko là một quốc gia chuyên chế với hệ thống nô lệ phổ biến" (Farris 1998:21), trong khi Mitsusada lý tưởng hóa Yamatai như một "sự cân bằng giữa các bộ lạc nhỏ " với công hữu và biểu lộ chính trị phổ biến. Cho đến cuối thập kỷ 1960 "sự bùng nổ Yamatai" diễn ra khi rất nhiều nhà sử học, ngôn ngữ họ, và khảo cổ học xuất bản những sự đánh giá lại về Himiko và Yamatai, cuộc tranh luận còn có sự tham gia của những người theo chủ nghĩa dân tộc, nhà văn thần bí, và nhà nghiên cứu không chuyên.

Trong phân kỳ khảo cổ và sử học Nhật Bản, thời kỳ thế kỷ 2-3 của Nữ vương Himiko là giữa thời Yayoi muộn và đầu thời Kofun. Kofun (古墳 "cổ phần") là gò mộ đặc hữu hình lỗ khóa, và "Ngụy chí" chú thích rằng "một gò lớn được dựng lên, đường kính hơn 100 bộ" về ngôi mộ của Himiko, có thể là ghi chép cổ nhất về một kofun. Khai quật khảo cổ học các di chỉ thời Yayoi và Kofun, đáng chú ý là di chỉ Yoshinogari, đã phát hiện một gương đồng kiểu Trung Quốc, gọi là shinju-kyo (神獣鏡 "Thần vật cảnh"). Các học giả như Walter Edwards (1998, 1999) liên hệ các shinju-kyo với "100 gương đồng" mà Ngụy chí (tr. Tsunoda 1951:15) ghi lại Hoàng đế Tào Duệ đã tặng cho Nữ vương Himiko.

Các ghi chép thời cổ Trung Quốc về Himiko và xã hội Yamatai của bà vẫn còn là một cái gì đó bí ẩn. Theo những cách giải thích khác nhau, vị Nữ vương Nhật Bản này có thể là bằng chứng cho công xã nguyên thủy (Marxist), các nữ pháp sư nằm quyền thời Jōmon, Nhật Bản xâm lược Triều Tiên (Akima 1993), Triều Tiên xâm lược Nhật Bản (Namio Egami's "thuyết kỵ sĩ"), hệ thống hoàng gia bắt đầu với hệ thống song quyền của một nữ tư tế và một triều đình của đàn ông (Mori 1979), "cách mạng phụ quyền" thay thế cho các vị nữ thần và nữ tư tế bằng các bản sao là nam (Ellwood 1990), hay một vị cố vấn pháp sư cho liên bang các tộc trưởng người Wa "với sứ thần Trung Quốc thì giống một vị nữ vương nắm quyền thống trị " (Matsumoto 1983).

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Himiko http://secure.britannica.com/eb/article-9040496/Hi... http://books.google.com/books?id=1IJrNAKBpycC&dq=s... http://www.guide2womenleaders.com/japan_heads.htm http://www.sacred-texts.com/shi/kj/index.htm http://www.trussel.com/prehist/news186.htm http://www.hgeo.h.kyoto-u.ac.jp/soramitsu/southeas... http://www.nanzan-u.ac.jp/SHUBUNKEN/publications/j... http://www.nanzan-u.ac.jp/SHUBUNKEN/publications/j... http://www.nanzan-u.ac.jp/SHUBUNKEN/publications/j... http://www.kanku-city.or.jp/yayoi/1_2.html